Nguyễn Huy Thiệp là một trong những tên tuổi nổi bật trong văn học Việt Nam từ 1975 về sau. Những sáng tác mang đậm phong cách Nguyễn Huy Thiệp khiến ông có một phong cách độc đáo cho riêng mình, nổi bật trong thi đàn văn học với hàng loạt những tác phẩm hồi bấy giờ. Nguyễn Đăng Mạnh - Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung và phong cách. Nhà xuất bản Trẻ, 2000. 5. Nguyễn Đăng Mạnh - Nhà văn tư tưởng và phong cách. Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2001. 6. Nhiều tác giả - Lý luận văn học. Nhà xuất bản Giáo dục, 1986 Văn chương Nguyễn Huy Thiệp không mắc cái tệ ấy. Hẵng xem từng mảng một, bắt đầu từ mảng dân gian: Những ngọn gió Hua Tát. Cuộc đời dun dủi đưa anh đến một bản nhỏ người Thái đen. Dân ở đó kể cho anh nghe một số chuyện cổ; anh đem kể lại với chúng ta, như những người sưu tầm văn học dân gian kể chuyện cổ Chàm, Tây Nguyên, Tây Bắc. Văn chương Nguyễn Huy Thiệp lúc nào cũng làm tôi đau đớn và trong đau đớn người ta thường bừng tỉnh. Một đặc điểm vô cùng quan trọng trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp là làm cho người ta bừng tỉnh về một đời sống mà họ đang sống trong đó. Khi những truyện ngắn Như sương khói trong đôi mắt ông kia. Nhưng văn chương của ông, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp tạo ra vẫn đổ bóng dài, thử thách mãi các nhà văn đương đại!' - nhà văn Nguyễn Văn Thọ. Năm 1986, nhà thơ Bế Kiến Quốc gọi tôi đến Tuần báo Văn Nghệ, giọng đầy bí mật: "Ông Nói cách khác thì chính phong bì là nguyên nhân cướp đi nhiều mạng người vô tội. . Việc này nhiều người phàn nàn riêng nhưng không ai dám nói chỗ công cộng, bởi nói chính là chặt đi đường sống của mình. Nguyễn Huy Hùng; Nguyễn Huy Thiệp; Nguyễn Hy Vọng; Nguyên Khả JRNaa. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp qua đời ngày 20/03/2021. Trong hơn 40 năm viết văn, ông đã để lại một di sản lớn. Đối với nhiều người yêu văn chương, truyện ngắn là cống hiến quan trọng nhất trong di sản của bậc thầy văn chương. Nhà phê bình văn học Ngô Văn Giá là một người hâm mộ văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Ông Ngô Văn Giá cũng là người gần gũi với Nguyễn Huy Thiệp trong giai đoạn cuối đời *. Trả lời RFI Tiếng Việt qua điện thoại từ Hà Nội, nhà phê bình Ngô Văn Giá chia sẻ nhận định chung của ông về một số cống hiến, mà theo ông là quan trọng nhất trong di sản truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Thế giới nhị nguyên » tan vỡ, thần tượng giải thiêngNhà phê bình Ngô Văn Giá Trong vòng 10 năm chói sáng, quãng từ 1987 đến 1997, khoảng thế thôi, anh ấy đã để lại trên dưới 60 truyện ngắn. Truyện ngắn của anh không có trung bình. Đấy là điều khẳng định luôn. Truyện nào đọc cũng được, và cũng có cái để nghĩ, có cái để đối thoại, có cái để tác động vào người đọc. Nhưng để chọn ra những cái trội nhất, có ý nghĩa đỉnh cao trong sáng tác đỉnh cao của anh ấy, và cũng là đỉnh cao của thể loại truyện ngắn của nền văn xuôi Việt Nam đương đại, anh ấy có chừng trên 20 truyện. Chúng ta có thể kể ra Những ngọn gió Hua Tát » chẳng hạn. Sau đó là Tướng về hưu », Muối của rừng », Chút thoáng Xuân Hương », Mưa Nhã Nam », Sống dễ lắm », Chảy đi sông ơi », Huyền thoại Mẹ », Những bài học nông thôn », Những người thợ xẻ »… Còn bây giờ đi vào những đóng góp tư tưởng nghệ thuật, thi pháp, tôi ghi nhận một số khía cạnh như thế này. Khía cạnh đầu tiên là, với sự xuất hiện hàng loạt, cùng một lúc một số truyện như Tướng về hưu », Muối của rừng », Chút thoáng Xuân Hương », Huyền thoại Mẹ » và nhất là chùm ba truyện ngắn lịch sử Vàng lửa », Phẩm Tiết », Kiếm sắc », Nguyễn Huy Thiệp đã thiết lập một cái nhìn, một quan niệm về đời sống, phá tan cách nhìn bổ đôi ngày xưa. Bên này tốt - bên kia xấu, bên này thiện - bên kia ác, bên này địch – bên kia ta. Các nhà văn phần lớn đều như vậy, sau này có rục rịch một chút, nhưng về cơ bản vẫn như thế. Nhưng đến Nguyễn Huy Thiệp, thì thế giới » tan hoang cả, phân mảnh, vỡ vụn ra. Cuộc sống là đa diện tốt pha xấu, thiện pha ác, quỹ dữ pha với thiên thần, và cái này có thể nay tốt mai thành xấu, phẩm chất đang ở thời chiến » được coi là tốt, sang thời bình » thành lạc thời… Như vậy, để nói là quan niệm của ông nhìn về thế giới, về hiện thực đời sống, nó khác lắm rồi. Cái thứ hai là, cũng cùng một quan niệm, nhưng về lịch sử. Anh ấy nhìn lịch sử với tư cách một người phân tích, và đưa ra những kiến giải lịch sử theo cách của mình, chứ không phải là cách người khác muốn, và không có sự áp đặt nào cả. Nhất là với bộ ba truyện Vàng lửa », Phẩm Tiết », Kiếm sắc », đó là một cái nhìn gần, cận cảnh, xét đoán con người trên phương diện con người, bản năng, bản thể, cá nhân. Ví dụ như một Quang Trung hiện ra, trước kia vốn được thuần túy ngợi ca như một anh hùng bách chiến, bách thắng, đẹp lộng lẫy, được thần thánh hóa. Bây giờ thì không. Quang Trung ngoài cái phần đó còn là cận cảnh Quang Trung đời thường, yêu đương, bộc lộ cả những cái rất đời thường. Như vậy, đó là cách ông ấy giải huyền thoại, kéo nhân vật về đời thường. Cái thứ ba là sự phối hợp lạ lùng, nhuần nhuyễn – điều mà cho đến nay vẫn chưa có được sự lý giải thỏa đáng – giữa tính chất cực kỳ trực diện, cực thực, dữ dội, trần trụi, không kiêng kỵ bất cứ cái gì, kể cả những ngôn từ bị coi là tục tĩu, gọi sự vật đúng với tên gọi của nó trong đời sống, phối hợp với một lối viết vô cùng trữ tình, đầy chất thơ, lãng mạn, bay bổng. Tôi thấy lối viết như vậy nó đẩy người ta vào sự đau đớn, cái sợ hãi, cái ghê rợn, nhưng đồng thời nó lại cứu người ta ra khỏi đó, để bước vào một cái gì đó trong trẻo, thanh khiết. Đó là một cái điều cũng rất là lạ. Cho đến nay, người ta vẫn chưa nói được hết, chưa khẳng định được hết khi nói về văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Cái ác, nữ tính và thiên nhiênRFI Xin ông cho biết một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách kỳ lạ này ạ. Nhà phê bình Ngô Văn Giá Thí dụ ta lấy truyện ngắn Những người thợ xẻ » nhé tác phẩm công bố năm 1988 ! Ông tập trung mô tả một gánh xẻ gỗ thuê, trong đó có một phụ nữ đi cùng với nhóm đàn ông, và nhân vật tôi nữa. Trong đó, tất cả những người làm nghề sơn tràng có tính khí cực kỳ cục cằn, dữ dội, thô bạo. Đó là những người gần với chất thô sơ bản năng, lục lâm thảo khấu. Họ đối xử với nhau một cách rất trắng trợn, thực dụng, dữ dội. Nhưng đó là đàn ông với nhau. Một khi có người đàn bà ở đấy, người đàn bà nhìn họ, cho dù đó là những người lỗ mãng đấy, phàm phu tục tử đấy, có chất lỗ mãng, hoang dã man rợ ấy, nhưng trong cái nhìn của người đàn bà thì họ lại rất đáng thương. Và cái thiên tính nữ, bản năng che chở của người nữ hiện lên. Đấy chính là cái suối nguồn mát lành. Miêu tả con người là thế, miêu tả thiên nhiên đẹp vô cùng. Tôi vẫn còn nhớ một câu kinh điển, như một giai điệu trở đi trở lại. Này hoa ban nghìn năm trước mày vẫn trắng thế này ư ? ». Rồi đến một đoạn khác Này hoa ban nghìn năm sau mày còn trắng thế này không ? ». Miêu tả những cánh rừng như vậy nó hùng vĩ, con người đi trong đó cô độc, như muốn hòa vào lòng từ bi, mẫu tính của người nữ, để như dịt lại những vết thương, hoặc cứu chuộc lại những tính người đã bị rơi vãi, hao hụt, mất mát ở những con người thô lỗ, hoang dã kia. Sự phối hợp lạ lùng giữa lối viết cực thực, trần trụi, cực kỳ dữ dội, không kiêng kỵ, với văn phong vô cùng thanh thoát, trữ tình, bay bổng, lãng mạn có thể coi là điểm hết sức riêng trong di sản văn chương Nguyễn Huy Thiệp, như nhà phê bình Ngô Văn Giá vừa gợi mở. Sáng tác văn chương thường là câu chuyện hết sức riêng tư, đầy bí ẩn và chắc chắn là vô cùng phức tạp, khó lý giải. Một số người cho đó là thiên tài » riêng của Nguyễn Huy Thiệp, khó lòng xét đoán. Tuy nhiên, nhiều người cũng đặt câu hỏi vì sao một phong cách kỳ lạ như vậy đã hình thành ở Nguyễn Huy Thiệp ? Nhà nghiên cứu Mai Anh Tuấn, tác giả một luận án tiến sĩ về văn Nguyễn Huy Thiệp dưới góc độ nhân học văn hóa » và nhiều bài viết về Nguyễn Huy Thiệp **, đặc biệt chú ý đến một số tiểu luận văn chương của Nguyễn Huy Thiệp. Trả lời RFI, ông Mai Anh Tuấn chia sẻ. Nhà nghiên cứu Mai Anh Tuấn Theo quan sát của tôi, có 5 tiểu luận rất quan trọng được Nguyễn Huy Thiệp công bố trong một giai đoạn từ 1989 đến 1992, tức là giai đoạn ông sung sức nhất, tạo nên hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp trên văn đàn. Đó là Một góc sơ xuất trong thế giới nội tâm nhà văn » 1989, Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn » 1991, Nhà văn và bốn trùm ''Mafia'' » 1992, Con đường văn học » 1992 Con đường của nhà thơ » 1992. Có thể nói các tiểu luận quan trọng nhất xuất hiện trong giai đoạn của cái mà ông gọi là Tâm tuyệt, Khí tuyệt, tức là thời gian ông đã dồn hết sức lực và sự tinh anh của mình vào sáng số các tiểu luận văn chương của Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên cứu Mai Anh Tuấn quan tâm nhất đến hai tiểu luận Một góc sơ xuất trong thế giới nội tâm nhà văn » và Nhà văn và bốn trùm Mafia’’ ». Ông Mai Anh Tuấn cho biết sơ lược ý nghĩa của hai tiểu luận này. Nhà nghiên cứu Mai Anh Tuấn Tôi thấy nhà văn Nguyễn Huy Thiệp rất tâm đắc với bài Nhà văn và bốn trùm ''Mafia'' » hoặc Một góc sơ xuất trong thế giới nội tâm nhà văn ». Cá nhân tôi xin được chia sẻ ngắn về hai tiểu luận này. Có hai điểm tôi tâm đắc trong Một góc sơ xuất trong thế giới nội tâm nhà văn ». Thứ nhất, ông nhấn mạnh đến tuổi thơ gắn bó, lớn lên ở nông thôn, và ông ấy học được ngôn ngữ của người bình dân lao động. Và cách nói, cách diễn đạt đó tác động ít nhiều ảnh hưởng đến lối hành văn sau này của Nguyễn Huy Thiệp. Tôi cho rằng, ngoài ảnh hưởng của văn xuôi cổ điển, chắc chắn phải có ảnh hưởng của lối tư duy, diễn đạt của người bình dân, không làm chữ, không làm màu, đi thẳng vào đối tượng, vì thế chúng ta thấy nó cũng gây ra nhiều phản ứng, thậm chí là những quy kết không hề nhẹ nhàng đối với văn chương của Nguyễn Huy Thiệp. Thứ hai là trong tiểu luận này, ông có nói một cái ý, nhà văn viết phải rắc một ít muối đâu đó trên trang viết. Ông nói Muối sát vào lòng người đọc một, thì sát vào lòng người viết 10 lần. Theo ông, văn học ở ta rất ít muối. Còn trong tiểu luận Nhà văn và bốn trùm ''Mafia'' », ông nói có bốn trùm Mafia » bao lấy nhà văn, khiến nhà văn khó có thể thoát ra được. Đó là chính trị, ái tình, tiền bạc và tôn giáo. Bốn trùm này làm cho văn chương, làm cho con người luôn phải nhận thức, luôn phải cảnh giác với các hiểm nguy. Nhà văn nào, tác giả nào có khả năng đối diện với nó, có khả năng hiểu thấu nó, thì nhà văn đấy đi được xa. Trong tiểu luận của Nguyễn Huy Thiệp, ông có nói nhà văn có sự nhạy cảm khủng khiếp với sự nhục mạ nhân phẩm. Ông nhìn thấy nhà văn như một cá thể cô đơn. Ông có đặt ra như một định nghĩa Nhà văn là gì ? Nhà văn chẳng là gì cả ! Nó chỉ là một linh hồn nhỏ đầy lầm lỗi và luôn tìm cách sám hối để vượt khỏi lầm lỗi ấy. Nó là một con vật nhạy cảm một cách đáng thương với các thói xấu của cả bầy đoàn. Nó viết không phải vì nó. Nó viết để cả bầy đoàn rút ra một lợi ích công cộng và lợi ích văn hóa. Sự mong manh của nhân tính và sứ mạng của nhà vănTrong tiểu luận Một góc sơ xuất trong thế giới nội tâm nhà văn », được nhà nghiên cứu Mai Anh Tuấn phân tích ở trên, Nguyễn Huy Thiệp tâm sự Nhưng tác phẩm dù hay ho đến đâu chăng nữa, nhà văn cũng sẽ hiện ra trước mắt chúng ta như một người nông nổi, một người nông nổi hết sức đáng thương, một kẻ bất hạnh nhưng tốt bụng. Người ta cũng đã từng vẽ hình ảnh Chúa với những nét hao hao như thế ». Sự mong manh của nhân tính, con đường cô đơn tột cùng, sự thăng hoa trong đau đớn của người sáng tác - cảm nhận xuyên suốt trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp - bắt đầu được chú ý trong giới nghiên cứu văn học Việt Nam những năm gần đây ***. Sinh thời, trong một số lần trả lời phỏng vấn, Nguyễn Huy Thiệp cho biết truyện ngắn Sang Sông » 1991 đánh dấu việc ông bước qua một giai đoạn khác trong sáng tạo. Câu chuyện diễn ra trong bối cảnh một chuyến đò ngang, với các nhân vật một nhà sư, một nhà thơ, một nhà giáo, một tên cướp, hai tên buôn đồ cổ, hai mẹ con, một cặp tình nhân và chị lái đò », có thể coi như một ẩn dụ về Nguyễn Huy Thiệp. Câu chuyện – với đỉnh điểm là cảnh cậu bé bị kẻ buôn đồ cổ kề dao vào cổ, tên cướp » tung côn đập vỡ bình cứu trẻ - kết thúc với cảnh nhà sư từ bỏ lộ trình đã định, để trở về cùng chuyến đò ngang. Trăng lên, tiếng chuông ngân nga êm đềm. Nhà sư thầm thì đọc câu thần chú – Gate gate! Para gate! Para para san gate! ». Con người đã đi qua chuyến đò, vượt được sông, nhưng quyết không rời bỏ chuyến đò nhân sinh. RFI Xin cảm ơn nhà phê bình Ngô Văn Giá và nhà nghiên cứu Mai Anh chú * Ngô Văn Giá, Nguyễn Huy Thiệp trở lại Hua Tát », Tiền Phong, 27/08/2017. ** Mai Anh Tuấn, Nguyễn Huy Thiệp, bởi những trải nghiệm riêng khác », Tia Sáng, 21/06/2016 hay Nguyễn Huy Thiệp Không ai lí giải được gì về nó, cái sự sống vô cùng vô tận ấy », 26/07/2017.*** Trần Văn Toàn, Nhà văn hiện đại Việt Nam Những giới hạn và sứ mệnh suy tư từ những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp » in trong Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy », NXB Giáo dục 2006. Tài liệu Đặc điểm ngôn ngữ người trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp Số 8 238-2015 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 103 NGÔN NGỮ VỚI VĂN CHƯƠNG ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NGƯỜI TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP LANGUAGE CHARACTERISTICS OF STORYTELLERS IN THIEP NGUYEN HUY'S SHORT STORIES ĐỒNG NGUYỄN MINH HẰNG Ths; Trường Đại học Hải Phòng Abstract Storytellers play an important role in conveying the content of stories. By using very simple words, Nguyen Huy Thiep has an engaging writing style. The storytellers of his stories use the language of polyphony to always have a dialogue with the readers. This makes him a novelist of very special literary style. Key words language of storytellers; Nguyễn Huy Thiệp. 1. Mở đầu Nguyễn Huy Thiệp được xem là một hiện tượng đặc biệt trên văn đàn Việt Nam thời kì đổi mới. Ông thành công hơn cả là ở các sáng tác truyện ngắn. Những yếu tố mới trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất phong phú, đa dạng, thể hiện một nội lực lớn lao về tư duy và nghệ thuật trong những tìm tòi, thể nghiệm, đặc biệt là ở nghệ ... 6 trang Chia sẻ honghanh66 Lượt xem 1056 Lượt tải 0 Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm ngôn ngữ người trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênSố 8 238-2015 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 103 NGÔN NGỮ VỚI VĂN CHƯƠNG ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NGƯỜI TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP LANGUAGE CHARACTERISTICS OF STORYTELLERS IN THIEP NGUYEN HUY'S SHORT STORIES ĐỒNG NGUYỄN MINH HẰNG Ths; Trường Đại học Hải Phòng Abstract Storytellers play an important role in conveying the content of stories. By using very simple words, Nguyen Huy Thiep has an engaging writing style. The storytellers of his stories use the language of polyphony to always have a dialogue with the readers. This makes him a novelist of very special literary style. Key words language of storytellers; Nguyễn Huy Thiệp. 1. Mở đầu Nguyễn Huy Thiệp được xem là một hiện tượng đặc biệt trên văn đàn Việt Nam thời kì đổi mới. Ông thành công hơn cả là ở các sáng tác truyện ngắn. Những yếu tố mới trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất phong phú, đa dạng, thể hiện một nội lực lớn lao về tư duy và nghệ thuật trong những tìm tòi, thể nghiệm, đặc biệt là ở nghệ thuật kể chuyện. Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu những đặc điểm của ngôn ngữ đối thoại trong lời người trần thuật tường minh của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Người trần thuật là một hình tượng nghệ thuật đặc biệt mang tính hư cấu, với vai trò "thay mặt" tác giả để kể lại câu chuyện, kể lại những diễn biến xoay quanh các nhân vật của câu chuyện, phát biểu những quan điểm của tác giả về con người, cuộc sống; dẫn dắt, định hướng người đọc; tổ chức tác phẩm. 2. Đặc điểm ngôn ngữ người trần thuật tường minh trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp Người trần thuật và điểm nhìn trần thuật Người trần thuật còn được gọi bằng một số thuật ngữ khác là người kể chuyện, chủ thể trần thuật, chủ thể kể chuyện. Người trần thuật giữ vai trò trung tâm trong việc biểu đạt nội dung truyện. Có 3 ngôi trần thuật ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai và ngôi thứ ba. Khi người trần thuật xưng “tôi”, tức là xuất hiện ở ngôi thứ nhất và được gọi là người trần thuật tường minh. Ở đây, người trần thuật vừa đóng vai trò là người dẫn chuyện vừa dựa trên điểm nhìn của nhân vật để kể chuyện một cách khách quan. Điểm nhìn trần thuật là yếu tố quan trọng trong nghệ thuật trần thuật. Dựa vào điểm nhìn, chúng ta có thể xác định được quan điểm của tác giả trong phần lớn trường hợp, việc tác giả đặt mình vào trong hay đứng ra ngoài câu chuyện để xem xét, miêu tả, bình luận. Điểm nhìn cũng chính là cơ sở để phân biệt người trần thuật với tác giả. Người trần thuật luôn gắn với một điểm nhìn nhất định. Có ba kiểu điểm nhìn điểm nhìn từ đằng sau, điểm nhìn từ bên trong và điểm nhìn từ bên ngoài câu chuyện. Khảo sát trong 43 truyện ngắn được in trong hai tập Tướng về hưu và Không có vua của Nguyễn Huy Thiệp, do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin xuất bản năm 2011, chúng tôi nhận thấy, có 24 truyện được dẫn dắt bởi người trần thuật tường minh. Trong NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 8 238-2015104 số đó, có 12 truyện người trần thuật xuất hiện với tư cách tác giả và 11 truyện xuất hiện với tư cách một nhân vật trong truyện ngắn. Riêng trong Tội ác và trừng phạt, “tôi”, người trần thuật đồng thời kể lại nhiều câu chuyện theo quan điểm của bản thân để nêu lên những vấn đề có tính chất luận đề về tội ác và trừng phạt. Dù với dáng vẻ, vai trò nào thì cái “tôi” ấy luôn là cái “tôi” mang tính đối thoại. Lời người kể chuyện, “là những chỉ dẫn về hoàn cảnh’’ bao gồm phần lời giới thiệu, miêu tả, trần thuật sự việc, con người; bao gồm cả phần lời dẫn thoại, trữ tình ngoại đề. Người trần thuật luôn hướng tới một sự giao tiếp hai chiều Trong các truyện ngắn, Nguyễn Huy Thiệp thường trăn trở về mấy đề tài đời sống, nhiệm vụ, vai trò của người viết văn và lịch sử. Trong đó, những truyện ngắn gây nhiều “sóng gió”, được đông đảo giới phê bình văn học và bạn đọc nói chung quan tâm nhiều nhất là đề tài lịch sử. Truyện ngắn viết về đề tài này không nhiều, chủ yếu được kể lại bởi người trần thuật tường minh Mưa Nhã Nam, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Trương Chi, chỉ có truyện ngắn Chút thoáng Xuân Hương được kể bởi người trần thuật hàm ẩn. Khai thác đề tài này, người trần thuật của Nguyễn Huy Thiệp thường dẫn dắt bạn đọc đến với những câu chuyện “khác” với những chuyện đã được biết đến về một nhân vật lịch sử nào đó Như Quang Trung, Chúa Nguyễn hay Hoàng Hoa Thám, Trương Chi. Cái khác ở đây tạo nên sự khác biệt gần như đối lập về điểm nhìn của người trần thuật đối với những nhân vật này điểm nhìn được hiểu theo nghĩa quan điểm, cách thức nhìn nhận chứ chưa đề cập đến cách thức xác lập vị trí trong lời kể. Bằng cách kể những câu chuyện mới về những con người “cũ” ấy, bằng cách đề cập đến phần con người - phần nhân tính mà nhiều khi không lấy gì làm cao cả của họ, người trần thuật của Nguyễn Huy Thiệp đã lên tiếng đối thoại, chất vấn lại lịch sử - vốn chỉ ghi nhận những nhân vật này ở sự cao cả. Người trần thuật tường minh của Nguyễn Huy Thiệp không bao giờ để người đọc thụ động trong quá trình đối thoại. Tác giả không đưa cho người đọc một chân lí sẵn có mà buộc người đọc phải suy nghĩ, tìm tòi, phải tự mò mẫm trong thế giới những thông tin không được xác thực. Người trần thuật thường đóng vai trò tác giả, có thể xuất hiện ở đầu truyện hoặc cuối truyện, hay ở cả phần đầu và phần cuối truyện, câu chuyện chính được kể bởi người trần thuật hàm ẩn. Với sự xuất hiện trực tiếp, người trần thuật tường minh của Nguyễn Huy Thiệp thường đưa ra những ý kiến hay những chứng cứ phủ nhận đi tính xác thực trong câu chuyện vừa được kể lại. Người trần thuật còn gây khó khăn cho người đọc trong quá trình giải mã nội dung truyện khi kể những chi tiết mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn, ở truyện ngắn Cún, tác giả kể một câu chuyện về cha của nhà nghiên cứu văn học X - được giới thiệu ngay từ đầu truyện là người am hiểu về phê bình văn học, điều này tạo nên niềm tin ban đầu cho người đọc về tính xác thực của câu chuyện. Thế nhưng, đến cuối truyện, tác giả lại phủ nhận hoàn toàn tính xác thực ấy bằng việc “tiết lộ” với người đọc về phản ứng của nhà văn X “Cậu viết những điều bịa đặt! Cậu cần tôn trọng hiện thực. Hiện thực khác lắm! Cậu biết cha tôi như thế nào không? ... Cha tôi là Cún nhưng không phải thế! ”. Hay, trong Kiếm sắc, Đặng Phú Lân theo Gia Long “chín năm không làm hỏng việc gì”, nhưng đã bị chém đầu khi nhà Nguyễn giành được giang sơn. Nhà văn lại khiến người đọc bối rối khi “kể” thêm rằng, có lần lên Đà Bắc, đã gặp gia đình ông Quách Ngọc Minh, có tổ phụ là ông Đặng Phú Lân, có vợ là Ngô Thị Vinh Hoa. Việc kể thêm này khiến người đọc hoang mang về cái chết của Đặng Phú Lân, có thực ông ta đã bị Nguyễn Ánh chém đầu hay không? Cái chết của Ngô Thị Vinh Hoa trong Phẩm tiết là thực hay giả? Số 8 238-2015 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 105 Ngôn ngữ đối thoại thể hiện qua các biểu thức ngôn ngữ gọi tên các nhân vật giao tiếp Thông qua việc sử dụng các biểu thức ngôn ngữ gọi tên các nhân vật tham gia vào “đối thoại”, người kể truyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã đưa các đối tượng giao tiếp tiềm năng trở nên tường minh ngay trong diễn ngôn truyện kể. + Tường minh hóa người nói trong khung giao tiếp bằng biểu thức tường minh “tôi” thường xuất hiện từ phần mở đầu truyện ngắn Vàng lửa, Phẩm tiết, Mưa Nhã Nam, Cún, Tội ác và trừng phạt, Chú Hoạt tôi, chỉ trong một số ít truyện, xuất hiện ở phần cuối Trương Chi, Kiếm sắc. Ở Vàng lửa biểu thức chỉ xuất người trần thuật tường minh “tôi” xuất hiện ở ngay đầu truyện ngắn “Ông Quách Ngọc Minh, ngụ ở Tu Lý, huyện Đà Bắc viết thư cho tôi Tôi đã đọc truyện ngắn Kiếm sắc của ông kể về tổ phụ tôi là Đặng Phú Lân. Riêng chi tiết gặp Nguyễn Du tôi không thích. Nhân vật người trẻ tuổi trong quán trong trẻo lạ lùng, tâm hồn sạch như nước ở núi ra không ra gì. Bài hát Tài mệnh tương đố cố ý gán cho Nguyễn Du là không khéo léo vậy. Ông gắng thu xếp lên chơi, tôi sẽ cho ông xem vài tư liệu, biết đâu giúp ông có cách nhìn khác. Con gái tôi là Quách Thị Trình sẽ mời ông món canh nấu khế ông thích Nhận được thư tôi đã lên thăm gia đình ông Quách Ngọc Minh.”. Người trần thuật tường minh “tôi” cũng có thể xác định được ở ngay phần mở đầu truyện ngắn Phẩm tiết “Ông Quách Ngọc Minh bạn đọc đã làm quen với ông qua hai truyện ngắn Kiếm sắc và Vàng lửa của tôi ngờ rằng ngôi mộ này là của bà Ngô Thị Vinh Hoa sống cách đây gần hai trăm năm. Truyền thuyết người Mường vùng này kể rằng bà đã lập ra dòng họ Quách Câu chuyện này kể về người phụ nữ nằm trong ngôi mộ ấy”. Ngược lại, trong Kiếm sắc, người trần thuật với tư cách tác giả thông qua việc dùng biểu thức tường minh “tôi" xuất hiện ở cuối truyện thực hiện vai trò trực tiếp đối thoại với bạn đọc “Tôi, người viết truyện này gần đây lên Đà Bắc, đến Tu Lý ở trong nhà một người Mường. Chủ nhà tên là Quách Ngọc Minh có cho xem bài vị thờ tổ tiên. Tôi hết sức ngạc nhiên khi ông Quách Ngọc Minh cho biết tổ tiên ông là người Kinh . Tôi còn được con gái ông Quách Ngọc Minh tên là Quách Thị Trinh hát cho nghe một bài hát xưa, có lẽ rất thanh tao về những chồi cây xanh. Viết truyện ngắn này, tôi muốn để tặng gia đình ông Quách Ngọc Minh để cám ơn thịnh tình của gia đình ông với riêng tôi. Tôi cũng xin cảm ơn một số nhà nghiên cứu lịch sử và bạn bè quen biết đã giúp tôi sưu tầm và chỉnh lí những tư liệu cần thiết cho công việc viết văn, vốn rất nhọc nhằn, phức tạp, lại buồn tẻ nữa của tôi”. + Tường minh hóa sự có mặt của người nghe thông qua việc sử dụng các đại từ nhân xưng ngôi thứ hai. Tác giả tự xưng “tôi” và đưa đối tượng giao tiếp tiềm năng vào khung giao tiếp bằng các đại từ nhân xưng ngôi thứ hai “bạn”, “bạn đọc”, “chị”, “chị bạn”, “cậu”, “cô” “Tôi sẽ kể chuyện này cho chị, vì chị, chị bạn ạ, bởi đến bốn mươi tuổi chị đã thành bà lão. Tôi sẽ kể chuyện này cho cậu, cậu im đi, cậu còn trẻ quá, cậu là thằng ngốc. Tôi sẽ kể chuyện này cho cô, rồi cô sẽ đi lấy chồng. Lúc ấy chỉ toàn những nhọc nhằn thôi, không ai kể chuyện cho cô nghe cả. Ở Nhã Nam, tháng Tư có mưa. Chuyện thế này Một câu chuyện nhỏ về Hoàng Hoa Thám” Mưa Nhã Nam; “Tôi đã ghi lại nguyên văn lời kể của người chủ quán. Trong bản ghi chép, tôi có sửa tên vài ba nhân vật và có thêm bớt ít dấu chấm phẩy để cho dễ đọc. Nhân dịp ngày Xuân, vậy xin hiến tặng bạn đọc thân mến gọi là món quà mừng năm mới” Chú Hoạt tôi. Người trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 8 238-2015106 thường hướng về người đọc như họ đang hiện hữu bằng xương bằng thịt trước mặt mình, trực tiếp lên tiếng đối thoại với người đọc Việc sử dụng các đại từ xưng hô trực tiếp trong giao tiếp vào diễn ngôn truyện kể là một hiện tượng phổ biến ở truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Hành động ngôn ngữ của người trần thuật mang tính đối thoại Giao tiếp văn học là một hoạt động giao tiếp đặc biệt, ở đó chỉ diễn ra quá trình phát của nhà văn mà không ghi nhận những phản ứng của người đọc vào trong diễn ngôn văn học, vì thế hành động ngôn ngữ đặc trưng, phổ biến của người trần thuật là hành động kể - trần thuật hành động này được người trần thuật thực hiện nhằm thuật lại, tái hiện sự việc. Văn bản trần thuật có thể được coi như là một câu trần thuật được mở rộng nhằm kể lại các sự kiện cho người tiếp nhận trần thuật biết, đồng cảm và đánh giá cùng mình. Ngoài ra, còn có thể tìm thấy trong lời người trần thuật các kiểu hành động ngôn ngữ khác, với tần số xuất hiện ít hơn như hành động miêu tả hành động giúp người đọc hình dung được các sự việc, chi tiết, nhân vật, thời gian, không gian của câu chuyện, hành động biểu cảm hành động bày tỏ trạng thái tâm lí của người kể chuyện, làm cho câu chuyện giàu cảm xúc, hành động bình luận, đánh giá giúp người đọc thấy rõ thái độ, cách nhìn nhận, đánh giá của người trần thuật với các sự việc, nhân vật trong câu chuyện. Các kiểu hành động ngôn ngữ của người trần thuật trong truyện kể có mối quan hệ chặt chẽ, trong đó, kể trần thuật là hành động chủ đạo, các hành động khác miêu tả, biểu cảm, bình luận, đánh giá có vai trò hỗ trợ, phối hợp để tạo điểm nhấn trong diễn ngôn truyện kể. + Hành động kể là hành động đặc thù, cơ bản, chiếm số lượng nhiều nhất trong lời người trần thuật tường minh của Nguyễn Huy Thiệp. Có thể nói, trong diễn ngôn truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp gần như chỉ có hành động kể - trần thuật, những kiểu hành động ngôn từ khác như hành động miêu tả, hành động bình luận, đánh giá, hành động biểu cảm, xuất hiện rất ít. Vì thế, diễn ngôn chủ yếu được xây dựng từ lời kể của người kể chuyện. Chẳng hạn, đoạn trích sau đây trong truyện ngắn Cún “Lão Hạ sợ quá, bủn rủn hết cả chân tay. Tiếng khóc ngằn ngặt đúng là có thật. Lão dỏng tai nghe. Đúng là tiếng khóc trẻ con. Lão Hạ cuống cuồng chạy xuống vệ sông. Lão vừa chạy vừa ngã. Tiếng khóc níu lão lại. Lão nhìn bên đường và nhận ra đứa bé nằm ở trong cống. Lão Hạ dần dần hoàn hồn. Hóa ra chẳng có ma quỷ nào cả! Hú hồn hú vía! Ma quỷ đã bỏ mất một cơ hội để rình chộp lão! Lão Hạ bò về phía cống, thò tay kéo đứa bé ra. Chân tay đứa bé lạnh buốt. Lão Hạ ôm đứa bé về lều chợ. Lão đặt tên nó là Cún”. Đoạn văn chỉ chứa những câu thực hiện hành động kể, những câu được đánh dấu bằng dấu chấm cảm như “Hóa ra chẳng có ma quỷ nào cả! Hú hồn hú vía! Ma quỷ đã bỏ mất một cơ hội để rình chộp lão!” cũng không có chức năng biểu cảm mà vẫn mang chức năng kể - tường thuật lại trạng thái tinh thần của lão Hạ cho độc giả. Lời tả - hành động tả tả cảnh, tả nhân vật của người trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp “dù là miêu tả thì vẫn thiên về kể” [5, và nếu tả thì thường chỉ là vài ba nét chấm phá, theo kiểu nắm bắt thần thái hoặc thoáng qua, hết sức chung chung, không cụ thể nhưng đôi khi rất sắc cạnh. Người trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không hé lộ cho người đọc phán đoán được thái độ của tác giả đối với nhân vật cũng như không hề hé mở điều gì về nội tâm nhân vật. Người trần thuật không thâm nhập vào thế giới nội tâm của nhân vật nên cũng ít những mô tả trạng thái nội tâm, vì thế mà hành động miêu tả nội tâm nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thực hiện chức năng thuật lại sự Số 8 238-2015 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 107 kiện, diễn biến là chính, tức là “thiên về hành động kể nhiều hơn” [5, tr. 98]. Hành động bình luận trực tiếp của người trần thuật trong truyện Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện với số lượng không lớn, hầu hết được thực hiện bằng những phát ngôn rất ngắn. Đó là những lời bình luận về tuổi trẻ, về tình yêu “Tuổi mười sáu là tuổi của mùa xuân, của tình yêu. Tình yêu có thể có nhiều nhưng mùa xuân thiếu nữ lại chỉ có một”; về dư luận “Tin đồn bao giờ cũng thế, qua miệng của người ngu dốt thì quái lạ thay, thường thú vị hơn qua những con người từng trải.” Trái tim của hổ - Những ngọn gió Hua Tát; hoặc là những bình luận về tình dục “Chuyện tình ái, giống đực thường khôn ngoan và vô trách nhiệm, giống cái thì nhẹ dạ và tận tụy quá” Nàng Bua; hay “Chuyện của trẻ con thì người lớn không nên cắt nghĩa vì logic của trẻ con là logic huyền thoại không tiền khoáng hậu. Người lớn bị thực tế khắc nghiệt làm mất đi sự mong manh của logic huyền thoại, thay vào là thứ logic xám xịt, rạch ròi.”; “Nó là đứa nhạy cảm, nhạy cảm quá mức, điều ấy thật không tốt.” Tâm hồn mẹ; “Nhưng gì thì gì, bởi thức ăn ngon, tất cả những lời chối tai đều nuốt trôi được Huyền thoại phố phường”; “Không thể nói Nguyễn Trãi đã sống thanh thản dưới triều vua Lê Thánh Tôn. Vị vua trẻ nắm quyền lực, lại ít kinh nghiệm sống, chỉ thích sự chiều nịnh hơn là nói thẳng, những cột trụ nhà nước như bọn Lê Ngân, Lê Sát, Lê Văn Linh, Lê Hy đều là những chính khách xuất thân giang hồ, trị nước bằng mưu mẹo chứ không xuất phát từ đạo và luật.” Nguyễn Thị Lộ; về học vấn với phụ nữ “Với phụ nữ, học vấn giữ vai trò thứ yếu tạo nên sức mạnh thần thánh của họ, điều này không phải chứng minh” Không có vua; “Triều Nguyễn của vua Gia Long lập ra là một triều đại tệ hại. Chỉ xin lưu ý bạn đọc đây là triều đại để lại nhiều lăng Vàng lửa Nhìn chung, kiểu bình luận của người trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp luôn luôn có xu hướng hạn chế sự định giá của mình mặc dù người trần thuật có rất nhiều thực quyền trong vấn đề này. Xu hướng chủ yếu là bình luận ngắn và trong bình luận thường chỉ kết luận riêng phần mình và dành riêng chỗ trống cho người đọc. Với việc hạn chế tối đa những hành vi miêu tả, hành vi bình luận hay biểu cảm để tạo cho người đọc những định hướng ban đầu trong quá trình giải mã tác phẩm, người trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã bắt buộc người đọc phải cùng “động não” để lí giải những vấn đề được đặt ra trong diễn ngôn, cả những vấn đề mà bản thân người trần thuật cũng chưa có được câu trả lời hợp lí; tức là đã có sự dịch chuyển từ độc thoại sang đối thoại với độc giả. Trong truyện Nguyễn Huy Thiệp, người trần thuật luôn chỉ là người khơi gợi để người đọc tham gia vào quá trình đối thoại thực sự, không áp đặt ý kiến chủ quan của mình lên người đọc “Tôi - người viết truyện ngắn này - căm ghét sâu sắc cái kết thúc truyền thống ấy. Quả thực, cái kết thúc ấy là tuyệt diệu và cảm động, trí tuệ dân gian đã nhọc lòng làm hết sức mình. Còn tôi, tôi có cách kết thúc khác. Đấy là bí mật của riêng tôi. Tôi biết giây phút rốt đời Trương Chi cũng sẽ văng tục. Nhưng đấy không phải là lỗi ở chàng. Mỵ Nương sống suốt đời sung sướng và hạnh phúc. Điều ấy vừa tàn nhẫn, vừa phi lí. Lẽ đời là thế” Trương Chi. Bằng cách này, người trần thuật đã bộc lộ rõ thái độ của mình, “căm ghét sâu sắc” cái kết thúc truyền thống của câu chuyện dân gian này, cái kết thúc mà các tác giả dân gian đã ru ngủ người đọc bằng những “ảo tưởng cổ tích” ngọt ngào. Anh ta tuyên bố rằng, mình có một cách kết thúc truyện khác có lẽ là hợp lí hơn ? nhưng không hề áp đặt mà chỉ là cơ sở để người đọc xem xét, đánh giá về nhân vật và truyện ngắn mà thôi. Trong Thổ cẩm, kết thúc câu chuyện, người trần thuật nói với bạn đọc “Câu chuyện trên đây do NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 8 238-2015108 một quan chức ở Bộ Y tế mà tôi muốn giấu tên kể lại cho nghe. Tôi không tán thành với nhiều ý kiến nhận xét của ông, nhưng tôi đồng ý với ông rằng cuộc đời quả là tươi đẹp, tuổi trẻ quả là tươi đẹp. Đương nhiên, kể cả với cách sinh con kiểu ấy.” - Người trần thuật bày tỏ đánh giá của mình nhưng anh ta cũng không khẳng định ý kiến của mình là hoàn toàn đúng và không hề thuyết phục bạn đọc đồng tình với ý kiến đó. + Tuy ít thực hiện những hành động như miêu tả, bình luận, biểu cảm nhưng đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp, có thể thấy người trần thuật lại thực hiện nhiều hơn những hành động trực tiếp hướng tới người đọc. Có khi, phát ngôn của người trần thuật thực hiện hành động cầu khiến “xin người đọc vì nể nang những xúc cảm đã thúc đẩy tôi viết mà lượng thứ cho ngòi bút kém cỏi của tôi”, hay có khi anh ta tuyên bố với người đọc “Tình cảm này, tôi xin nói trước là sự bênh vực của tôi đối với cha mình” Tướng về hưu. Việc người trần thuật đối thoại trực tiếp với bạn đọc còn được đánh dấu trong diễn ngôn bằng sự xuất hiện của những câu hỏi hướng tới người đọc “Trên đất nước mình, đâu đâu chẳng là mảnh đất tình yêu, mảnh đất giữ người? Hãy làm cho mảnh đất này ngày càng phì phiêu, tươi đẹp. Tôi nghĩ thế, chân thành nghĩ thế. Vậy còn bạn, bạn nghĩ thế không?” Quan âm chỉ lộ Hay hành động cảm tạ “Trên đây là những sự việc lộn xộn trong hơn một năm mà tôi ghi chép lại. Tôi coi đấy như nén hương thắp nhớ người. Nếu có ai đã có lòng đọc điều tôi viết, xin lượng thứ cho tôi. Tôi xin cảm tạ”. Người trần thuật nhiều khi lên tiếng thực hiện hành vi thách thức độc giả “Tôi không chắc ông Hoàng Hoa Thám, tức Đề Thám, tức Hùm xám Yên Thế trong lịch sử có giống ông Đề Thám mà tôi kể không? Còn ông Đề Thám như tôi biết tôi biết rõ ông ta ông ta là một anh hùng, cũng là một người nhu nhược” Mưa Nhã Nam, hoặc “Tình cảm này, tôi xin nói trước, là sự bênh vực của tôi đối với cha mình” Tướng về hưu Cách nói này đã tác động trực tiếp đến người đọc như những lời khiêu khích, đặt người đọc vào tình thế “bị thách đấu”, buộc phải tham gia vào quá trình đối thoại và buộc phải có ý kiến riêng của mình. 4. Kết luận Ngôn ngữ trần thuật đầy tính đối thoại đã làm nên phong cách truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả kể chuyện bằng ngôn ngữ đa giọng điệu. Bằng cách đặt mình vào trong các sự kiện, tác giả kể những câu chuyện lịch sử bằng giọng chất vấn, phản biện. Ở dạng truyện ngắn về chân dung nhân vật, tác giả thường kể chuyện bằng ngôn ngữ phóng đại, khoa trương và huyền bí. Còn với đề tài hiện thực xã hội, người đọc lại được dẫn dắt bằng lối hành văn dửng dưng, lạnh lùng mà giễu nhại, châm biếm sâu cay. Nguyễn Huy Thiệp có lối diễn đạt rất giản dị, đời thường, sử dụng các câu ngắn, sáng rõ chứ không gọt đẽo câu chữ cầu kì. Sự kì thú, hấp dẫn trong các câu chuyện ông kể không thể hiện ở câu, từ mà ở sự dẫn chuyện khéo léo, tài tình của ông. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Đình Dân 2013, Vấn đề đối thoại trong “Những kẻ thiện tâm của Joanathan littell, Tạp chí khoa học, trường Đại học An Giang, số 1. 2. Đỗ Hữu Châu 2010, Đại cương ngôn ngữ học tập hai, Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục, H. 3. Đỗ Việt Hùng - Nguyễn Thị Ngân Hoa 2003, Phân tích phong cách ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, Nxb Đại học Sư phạm, H. 4. Nguyễn Thị Ngân Hoa 2013, Những yếu tố tuyến tính hóa đặc trưng nhân vật người kể, điểm nhìn, giọng điệu của diễn ngôn truyện kể qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 207+208. 5. Nguyễn Thị Thu Thủy 2003, Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Điểm nhìn và ngôn ngữ kể chuyện, Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, ĐH Sư phạm Hà Nội. Các file đính kèm theo tài liệu này Bài viết phân tích các sự kiện tiểu sử nhà văn Nguyễn Huy Thiệp và, bằng cách đó, nhìn lại những cách ứng xử với cuộc đời và văn chương của ông mà nhìn kĩ, nó như là sự kết hợp giữa tinh thần “trẻ Nho già Trang” của các văn sĩ trung đại với tinh thần phản biện, phê phán của thế hệ nhà văn Đổi mới. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Sinh ở nông thôn Sinh năm 1950 tại Thái Nguyên nhưng tuổi thơ Nguyễn Huy Thiệp còn gắn liền với nhiều làng quê khác nhau ở miền Bắc, trong thời điểm cuộc chiến chống Pháp chưa kết thúc. “Tôi sinh ra chỉ vài ngày – Nguyễn Huy Thiệp kể trên báo Le Monde, là mẹ tôi phải bỏ tôi vào một cái gùi, và địu trên lưng bà, để trốn chạy bom đạn của người Pháp”1. Nhưng kí ức cuộc chiến hoàn toàn mờ nhạt so với kí ức nông lị Vĩnh Phúc, đặc biệt là vùng Kim Anh nằm cạnh sông Cà Lồ để lại dấu ấn sâu đậm trong những tiếp xúc đầu đời của Nguyễn Huy Thiệp với thế giới bên ngoài. Bến Cốc, tên bến sông nơi gia đình ông tạm trú, chỉ chưa đến 30 nóc nhà nhưng lại có nhiều người theo đạo Thiên chúa. Cậu bé Thiệp ở với mẹ và ông bà ngoại, không có nhiều bạn bè cùng lứa, cảm giác “cô đơn”, thứ cảm giác đã được diễn tả rất tinh tế trong Tâm hồn mẹ 1982, lúc đó cứ trải theo những bờ tường đá ong, những cánh đồng đầy dế. “Nỗi cô đơn ở trẻ nhỏ là chỗ đất tốt cho những tâm hồn mơ mộng”2. Ông ngoại là người mở mắt mở lòng cho nhà văn tương lai bằng những bài thơ Đường, phong dao tục ngữ và những nét Hán tự không quá bài bản. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp còn được học với cha xứ, vị này mỗi tháng một lần về nhà thờ ở bến Cốc, “chiều xuống, tiếng chuông nhà thờ ở giữa bến Cốc lan trên mặt sông mang mang vô tận” Chảy đi sông ơi3. Giữa thập niên 1950 ấy, ta biết rằng, chính phủ kháng chiến, đã tiến hành cải cách ruộng đất và gây ra không ít bất ổn, xáo trộn ở nông thôn. Tuy vậy, đúng như Greg Lockhart nhận định “cảm quan Thiên chúa giáo ở một số truyện của Nguyễn Huy Thiệp, như Chảy đi sông ơi, Giọt máu, Con gái thủy thần lại nổi bật”4. Dường như những vùng thôn quê biến động không làm ảnh hưởng đến cậu bé Thiệp thường đến nhà thờ, tìm đọc Kinh Thánh cho đến trước khi lên mười. Dĩ nhiên, ảnh hưởng Ki-tô giáo như một nguồn tư tưởng phương Tây thì phải thấm hơn về sau, còn lúc đó, trong cái viết đầu tay, Nguyễn Huy Thiệp lại làm thơ. Thơ phú, trong con mắt gia đình ông, đồng nghĩa với làm loạn và sẽ được ông nhắc lại nhiều lần như một ám ảnh “danh hiệu nhà thơ là thứ danh hiệu lỡm người bạc phúc. Thơ chỉ là thứ du dương bất lực” Giọt máu. Ông ngoại, hẳn vì kinh nghiệm không mấy ngọt ngào của một nhà nho thất thế, đã hết sức ngăn cấm đứa cháu đang theo đuổi làm thơ – “thứ tài năng tầm thường nhất” Mưa. Nguyễn Huy Thiệp nghe theo, liền viết những mẩu truyện nhỏ, học theo lối ngữ pháp đơn giản, với những câu văn ngắn như cách nói thường ngày. Đấy hẳn là mầm mống để lối hành văn theo phong cách tối giản minimalism trở thành điểm độc đáo trong nghệ thuật văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp. Trải nghiệm nông thôn làng xã Bắc bộ, đương nhiên không phải của riêng Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng như sẽ thấy, ông không tái hiện nông thôn trong mối liên quan với các sự kiện mang tính chính trị – xã hội, như về phong trào hợp tác xã, về cải cách ruộng đất vốn vẫn được các nhà văn Đổi mới nhắc lại. Những mô tả nông thôn, nông dân của Nguyễn Huy Thiệp gần gũi với các mô tả dân tộc chí, với mối bận tâm về các tính chất, đặc trưng truyền thống của làng xã. Trên thực tế, mặc dù nông thôn Bắc bộ đã biến đổi rất nhiều kể từ sau 1945, nhưng Nguyễn Huy Thiệp sẽ vẫn kể về nó như là không gian lưu giữ các sinh hoạt và thiết chế đã từng vững chắc, từ gia đình, quan hệ họ hàng, thân tộc,… đến các tập tục, tín ngưỡng và tâm linh cộng đồng. Các tác động của bối cảnh Đổi mới đến làng quê, đặc biệt là sự có mặt của kinh tế thị trường dẫn đến sự gia tăng thiếu kiểm soát của các nghi thức cưới xin, ma chay, cỗ bàn…, cũng sẽ được ông đề cập với giọng điệu vừa ưu tư vừa đùa giễu. Từ cuối thập niên 1980, Nguyễn Huy Thiệp dành mối bận tâm lớn về nông thôn và tuy ít nhận được những phản ứng từ độc giả so với loạt truyện giả lịch sử, nhưng nó thực sự quan trọng trong mảng văn xuôi viết về nông thôn đương thời. Con gái thủy thần vào các năm 1988, 1989, 1998, Những bài học nông thôn 1988, Thương nhớ đồng quê 1992, Chăn trâu cắt cỏ 1996, Chú Hoạt tôi 2001, Cánh buồm nâu thuở ấy 2004…, lần lượt làm rõ hơn quan điểm của Nguyễn Huy Thiệp “mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ở nông thôn.” Vượt xa vị trí đề từ cho một truyện ngắn, quan điểm này gợi nhắc sự cần thiết phải nhìn lại gốc gác, căn cước mỗi cá nhân, trong đó có người dân châu thổ Bắc bộ. Nếu coi vùng địa lí này là cái nôi của văn minh Việt Nam, nếu thừa nhận “tính độc đáo của châu thổ Bắc kỳ trên bán đảo Đông Dương là rất rõ”5 với tất cả các biểu hiện đặc thù về môi trường vật chất lẫn các phương tiện sống, thì việc trở lại dò thấu nó, sau nhiều gián cách và hời hợt nhất định, là một nhu cầu tất yếu. Khi đó, nhà văn hoàn toàn có cơ hội để nhận thức lại “con người làng xã”, nhân vật trung tâm chưa bao giờ cạn nghĩa, bởi đây là “con người phổ quát của xã hội Việt, là cái phần phổ quát trong mỗi người Việt”6. Cần thấy rằng, cuối thập niên 1980 cũng là giai đoạn hồi sinh mạnh mẽ của những nghiên cứu dân tộc học, nhân học làng xã Bắc bộ. Sẽ có nhiều hữu ích và lí thú nếu đọc những truyện kể nông thôn của Nguyễn Huy Thiệp, không những từ đối sánh với các tác phẩm cùng đề tài, mà còn từ vốn nhân học làng xã Bắc bộ bởi mức độ tương đồng về tính “hiện thực” giữa chúng hoàn toàn có thể được đối chứng trên văn bản. Đương nhiên, ta không hề quên rằng Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn và quyền hư cấu, bịa đặt trên trang viết ở ông rất lớn. Tuy vậy, ngay cả khi có độ vênh trong cách đọc này thì dấu ấn của cái nhìn dân tộc chí Nguyễn Huy Thiệp trong quan sát, tái hiện đời sống làng quê vẫn là một sự tiếp nối lối viết, từ Ngô Tất Tố với Việc làng 1940, Trọng Lang với Làm dân 1940 và Thi vị đồng ruộng 1944, đến Sơn Nam với Hương rừng Cà Mau 1962, Bình Nguyên Lộc với Cuống rún chưa lìa 1969… Tiếp nhận văn học cổ điển Năm 1960, Nguyễn Huy Thiệp quay về Hà Nội, vào lúc cuộc chiến tranh chống Mỹ hiện hình rõ rệt ở miền Bắc. Mười năm tiếp theo, đặc biệt là quãng thời gian vào học Đại học Sư phạm, Nguyễn Huy Thiệp có dịp tiến sâu hơn vào tri thức sách vở, khi ông lần lượt tìm đọc các trước tác của các triết gia Trung Hoa cổ đại, Sử kí Tư Mã Thiên, và, như hầu hết các sinh viên miền Bắc lúc đó, ông đọc các tiểu thuyết Nga thế kỉ XIX được dịch sang tiếng Việt. Sự định hình không gian hiểu biết của Nguyễn Huy Thiệp, ngay từ đầu, đã bị đặt trong những đường biên văn cảnh mà bản thân ông không ý thức rằng đó là giới hạn. Nhìn vào những gì ông trích dẫn, đưa vào tác phẩm cụ thể cũng như các tiểu luận được đăng từ cuối 1980 thì diện tham bác chủ yếu là các tác gia lớn của văn học trung đại Việt Nam và các nhà văn-triết gia châu Âu thế kỉ XVIII, XIX. Nói chuyện với độc giả ở Paris, ông thành thực “Thế hệ của chúng tôi chỉ tiếp xúc nhiều với văn học cổ điển. Chứ văn học hiện đại rất hạn chế”7. Peter Zinoman đã coi thực tế này như một trở lực, ngăn Nguyễn Huy Thiệp đến với các xu hướng văn chương phương Tây tiền phong8. Tình thế bị hạn định đó dẫn ông đến lợi thế của một độc giả say mê kiểu tự sự truyền thống trong văn học cổ Việt Nam, Trung Hoa. Lối viết “lạnh băng” của sử kí Tư Mã Thiên hay tâm thế một người học lịch sử, rõ ràng, đã đẩy ông vào thói quen chi tiết hóa cả ngày tháng, địa danh và hành trạng nhân vật lịch sử trong các truyện giả lịch sử gây sóng gió của mình. Ông cũng không ngần ngại đuổi theo mô hình các truyện kể danh nhân nhân vật chí như đã rất rõ nét trong loạt truyện về Tú Xương Thương cho cả đời bạc, 1996, Nguyễn Bính Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt, 1997, Đề Thám Mưa Nhã Nam, 1992… Trong khi, như Lại Nguyên Ân nhận định, “không gian văn học miền Bắc những năm 1950-70 có thể là điển hình cho không gian đơn ngữ, độc ngữ; toàn xã hội chỉ nói chỉ đọc tiếng Việt chữ Việt họa báo Liên Xô, sách ngữ lục Trung Quốc cũng đến đây dưới dạng chữ Việt và chỉ được biết mọi loại thông tin qua tiếng Việt chữ Việt”9 thì Nguyễn Huy Thiệp đã dựa vào chất nền văn học cổ điển nội địa để xoay chuyển những điểm bất lợi khi viết văn, nhất là vào thời điểm ông xuất hiện đã cận kề với giai đoạn tái hội nhập phương Tây, báo hiệu sự ưu thắng của những kĩ thuật viết mới lạ. Càng về sau, Nguyễn Huy Thiệp càng chứng tỏ mình ưa cải dạng các thể loại văn học cổ tiểu thuyết võ hiệp, chèo, truyện thơ nhằm gây chú ý ở những tìm tòi nghệ thuật tưởng là quen thuộc, thông thường nhất. Một số cách đọc Nguyễn Huy Thiệp từ lí thuyết hậu hiện đại đã không thật để tâm đến sự tái sinh các phương thức tự sự truyền thống trong tác phẩm của ông. Hướng vào các thủ pháp được cho là hậu hiện đại, theo Peter Zinoman, “có thể khó hiểu hơn là tác phẩm bộc lộ”10. Một thập niên “úp mặt vào núi” Một sự kiện bước ngoặt là thay vì vào chiến trường, Nguyễn Huy Thiệp tuân theo phong trào “thanh niên 3 sẵn sàng” để, trong gần mười năm 1970-1980, dạy học ở Sơn La. Một thập niên “úp mặt vào núi” đem đến cho ông hai trong số các cảm hứng chính yếu của mình dạy học hay rộng hơn, giáo dục, và núi rừng, thiên nhiên. Những hồi quang phong phú từ nơi rừng thiêng nước độc, “khỉ ho cò gáy” cách thủ đô vài trăm cây số quyết định gần như tuyệt đối xu hướng tự thuật trong nhiều trang văn giàu hồi ức của Nguyễn Huy Thiệp. “Nhưng hơn thế nữa – báo Le Monde nhận định, nhờ rừng ông khám phá ra sức mạnh của thiên nhiên, điều này ánh men lên trong tất cả tác phẩm của ông”11. Thứ sức mạnh tự nhiên mà chàng trai “20 tuổi, vừa mới tốt nghiệp ra trường, tâm hồn còn rất ngây thơ” Những người muôn năm cũ chứng kiến sẽ được cụ thể hóa bằng những nhận xét mang dáng dấp “thiên nhiên tâm luận” trải khắp đời cầm bút của nhà văn Từ 1986, với Muối của rừng; 1992 với Mưa Nhã Nam; 1994 với Hoa sen nở ngày 29 tháng 4; 2005 với Tuổi 20 yêu dấu… Có thể nói, Những chuyện kể bất tận của thung lũng Hua Tát 1987, Những người thợ xẻ 1988, Truyện tình kể trong đêm mưa, Sống dễ lắm, Thổ cẩm đã góp phần làm thức dậy “đề tài rừng núi” dường như, theo Philippe Papin, vắng bóng trong văn hóa ở một xứ rừng bao phủ hơn phân nửa diện tích. “Với Việt Nam – Papin nhìn nhận, những vùng cao là một thực tại mới mẻ, một ý niệm của thế kỉ XX mà họ vẫn chưa thấu rõ hết nội dung. Phải biết rằng cho tới ngày nay, các cô giáo bị thuyên chuyển lên cao nguyên vẫn hoang mang dường nào đó là biệt xứ, là bứng gốc, là sự đột nhập tàn nhẫn của cái lạ thường”12. Sự đối đầu giữa núi rừng và thành thị, giữa thế giới tự nhiên và xã hội văn minh, nhìn chung, cũng sẽ trở thành trọng âm của nhà văn nhằm điều chỉnh những tiếng nói sai lệch, nhầm lẫn trong các diễn ngôn từng có về vùng cao, tộc người thiểu số và những gì vẫn được cho là hoang dã, lạc hậu. Không có mặt và ít bị tác động trực tiếp từ bom đạn chiến trường khiến Nguyễn Huy Thiệp đứng ngoài một trong những cuộc viết dai dẳng nhất – viết về cuộc chiến và người lính, của những nhà văn cùng thế hệ. Chẳng những rời xa đề tài từng đem lại vinh dự lẫn khổ tâm cho bao người này, Nguyễn Huy Thiệp còn dứt khoát kết thúc một mẫu hình nhân vật – người lính, mà văn học giai đoạn Đổi mới vẫn chưa hết say mê. Tướng về hưu 1987 là tác phẩm duy nhất nhắc đến người lính nhưng đó là một kiểu người lính hưu tàn, thất bại và chết bất đắc kì tử trong thời bình. Ẩn dụ về cuộc chiến có chăng chỉ hiện lên trong những mô tả thực tại xã hội nghèo đói, bệnh tật, mất an toàn sinh kế và suy thoái đạo đức. Chấn thương chiến tranh nếu trở nên trầm trọng với những nhà văn từng mặc áo lính, từng là bộ đội thì nó, day dứt không kém, ngấm sâu ở cái nhìn về chủ nghĩa anh hùng, về giá trị chiến thắng, vinh quang, về mô hình quyền bính lí tưởng của Nguyễn Huy Thiệp. Cần nhấn mạnh điểm riêng này để có thêm cơ sở cho sự hình dung về con đường đi tới kiểu nhà văn tự ý thức trong giai đoạn các điều kiện của xã hội dân sự bắt đầu ló dạng. Trở lại tự nhiên Sau mười năm “hãy đi xa hơn nữa” nơi núi rừng, Nguyễn Huy Thiệp quay lại Hà Nội, làm một “nhân viên quèn” ở nhiều cơ quan khác nhau, khi ở nhà xuất bản Giáo dục, khi tại Công ty Kỹ thuật trắc địa bản đồ. Một cách thầm lặng, ông đọc Chernyshevsky Quan hệ thẩm mỹ của nghệ thuật đối với hiện thực, Tseitlin Lao động nhà văn, G. Plekhanov Bàn về nghệ thuật và nghiên cứu tâm lí độc giả, đúng hơn là “nghiên cứu tâm lí dân tộc trong cả một khoảng thời gian dài”. Trên cơ sở đó, ông bắt đầu hướng tới “dọn ra món ăn tinh thần cho cả thời đại”13. Tháng năm năm 1986, Nguyễn Huy Thiệp cho đăng hai truyện ngắn đầu tiên trên báo Văn nghệ Nàng Sinh và Cô Mỵ. Đến tháng chín có thêm Vết trượt. Nhưng tất cả mọi sự chú ý, dư luận và là nguyên cớ của”hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp” phải đến khi Tướng về hưu xuất hiện cũng trên Văn nghệ vào tháng sáu năm 1987 – thời điểm có “một chiều kích chính trị quan trọng” như G. Lockhart cảm nhận14. Từ đây đến 1992, năm Nguyễn Huy Thiệp tuyên bố “rửa tay gác kiếm”, không viết văn nữa, là giai đoạn “cập thời vũ” nhất nhưng cũng “tâm tuyệt, khí tuyệt…” nhất của ông. Mọi tán dương lẫn bài xích cũng theo đó mà phủ ập xuống. Tháng 3/1992, ông tự nguyện xin thôi việc ở cơ quan nhà nước, chuyển sang kinh doanh nhà hàng. Cao trào Đổi mới văn học cũng dần lắng lại. Nhưng tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp bắt đầu được chuyển ngữ và xuất hiện ở nhiều không gian đọc khác nhau, ở Pháp, Mỹ, Ý, Thụy Điển… Đáng nói hơn, đây cũng là lúc ông công bố những tiểu luận văn chương chứa đựng phần lớn kinh nghiệm, quan điểm sáng tạo của cá nhân mà mức độ nói thẳng, nói thật, nhìn ngược vấn đề trong đó đã gây nhiều phản ứng trái chiều. Trên Con đường văn học 1992, ông ngậm ngùi và kiêu hãnh nhận ra “xác chết của các nhà văn đã chất thành núi trên thế gian này. Người ta vẫn bới tìm ở đấy những mẩu vụn của con người, về con người”15. Ông quay về triết lí nhẹ nhàng với cảm quan Phật giáo trong Hoa sen nở ngày 29 tháng 4 1994, bao dung Thương cho cả đời bạc 1996, đề cao Bài học tiếng Việt 1999 và sau cùng, khi đã vỡ lẽ “lẽ thường, lẽ vô thường”, “sự mất mát, sự vô nghĩa, lẫn ý thức về thời gian biến dịch” Con gái thủy thần, 1998, ông khẳng định Sống dễ lắm và Cười lên đi 2000. Tiếng cười ý vị, quả thật, đã làm ông khỏe khoắn và tinh quái lần nữa trong những câu chuyện thoạt tiên tưởng chỉ để “mua vui”, Chuyện ông Móng 2001, Những tiếng lòng líu la líu lo, Chuyện bà Móng 2004… Cũng đã có lúc, ông Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn 2004 để rồi hứng chịu hàng loạt phản bác dữ dội. Có thể nói, sau cao trào Đổi mới, Nguyễn Huy Thiệp lựa chọn thái độ “trở lại tự nhiên”. Bởi theo ông, “một xã hội dân chủ, tự do cũng sẽ là một xã hội tôn trọng tự nhiên, gần gũi với tự nhiên, vừa đồng hóa, vừa dị hóa, tiêu hóa nữa”16. Thái độ đó chi phối cách viết và thể loại của ông. Nhưng hơn hết, tư tưởng Nam tông theo giáo lí đốn ngộ, lẽ biến dịch của Lão Trang và sự tinh giản của tích trò dân gian Việt mới thực sự phóng chiếu sâu đậm trong trang viết của ông giai đoạn này. Không mấy nhà văn cùng thế hệ có những biểu hiện như thế. Một lần nữa, ông vẫn riêng khác trong những cách ứng xử với cuộc đời và văn chương của ông mà nhìn kĩ, nó như là sự kết hợp giữa tinh thần “trẻ Nho già Trang” của các văn sĩ trung đại với tinh thần phản biện, phê phán của thế hệ nhà văn Đổi mới. ——— 1 [Báo] Le Monde 2005, “Nguyễn Huy Thiệp, những vết thương cháy bỏng”, Nguyễn Quốc Trụ dịch, Nguồn 2 Nguyễn Huy Thiệp 2010, Giăng lưới bắt chim, NXB Thanh Niên, H., 3 Lời kể trong truyện Chảy đi sông ơi. Những trích dẫn truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ở bài viết này, nếu không có chú thích gì khác, lấy từ Nguyễn Huy Thiệp 2007, Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp Với minh họa của các họa sĩ, NXB Văn hóa Sài Gòn & Đông A. 4 Greg Lockhart 1992, “Nguyen Huy Thiep and the Faces of Vietnamese Literature” in Nguyen Huy Thiep, The General Reties and Other Stories, Oxford University Press, 5 Pierre Gourou 2015, Người nông dân châu thổ Bắc kỳ, Nhiều người dịch, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 6 Đỗ Lai Thúy 2005, Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, NXB Văn hóa Thông tin, H., tr73-74. 7 Nguyễn Huy Thiệp 2002, “Ở Việt Nam tháp rùa vẫn như cũ”, trò chuyện văn chương với Jean Lacouture tại Paris Pháp, Kim Lefèvre chuyển ngữ. Bản điện tử do Thuận thực hiện. Nguồn 8 Peter Zinoman 1994,“Declassifying Nguyễn Huy Thiệp”, PositionsEast Asia Cultures Critique 2 2 Fall, 9 Lại Nguyên Ân 2014, “Hình thành, định hình, trưởng thành, phân hóa Mấy nét về lớp nhà thơ xuất hiện ở miền Bắc những năm 1960-1970”, Nguồn 10 Peter Zinoman 1994,“Declassifying Nguyễn Huy Thiệp”, Tlđd, p. 298. 11 [Báo] Le Monde 2005, “Nguyễn Huy Thiệp, những vết thương cháy bỏng”, Tlđd. 12 Philippe Papin 2011, Việt Nam hành trình một dân tộc, Nguyễn Khánh Long dịch, NXB Giấy vụn, TP Hồ Chí Minh, 13 Giăng lưới bắt chim, Sđd, 14 Greg Lockhart 1992, Tlđd, 15 Giăng lưới bắt chim, Sđd, 16 Giăng lưới bắt chim, Sđd, Vanvn- Nguyễn Huy Thiệp được xem là một hiện tượng tiêu biểu của Văn học Việt Nam cuối thế kỷ XX. Những sáng tác của ông, đặc biệt ở thể loại truyện ngắn, đã mang đến một làn gió mới cho đời sống văn chương đương đại. Có rất nhiều ý kiến tranh luận xung quanh tác giả đặc biệt này. Khen cũng nhiều mà chê trách, lên án cũng không ít. Trong bài viết này, chúng tôi không nhằm đánh giá cái hay cái dở của ông, chỉ mong “điểm danh” những yếu tố nổi bật về mặt phong cách trong địa hạt truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, góp phần giúp độc giả có thêm những đường kênh đa dạng trong việc khám phá, đánh giá ông. Vấn đề phong cách truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất rộng. Nếu khai thác đến nơi đến nơi đến chốn thì mỗi nét đặc trưng trong phong cách của ông xứng đáng phải nằm trong một chuyên luận dài hơi. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chủ ý đi theo “bề rộng” chứ không khai thác sâu. Việc đi sâu khai thác từng khía cạnh chúng tôi sẽ trình bày trong dịp khác. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp 1950 – 2021 Tư liệu khảo sát của chúng tôi là 37 truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp in trong tập “Nguyễn Huy Thiệp – Truyện ngắn” được Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 2003. Đây được xem là toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Huy Thiệp ở thể loại truyện ngắn. Cũng cần nói thêm, có những truyện ngắn tác giả phân ra thành nhiều truyện nhỏ bên trong như Con gái thủy thần 3 truyện nhỏ, Những ngọn gió Hua Tát 10 truyện nhỏ, chúng tôi chỉ tính một truyện. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có những nét nổi bật về phong cách sau đây 1. Giọng văn lạnh lùng, không sắc thái biểu cảm Đây có thể được xem là nét nổi bật nhất trong phong cách truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Với giọng văn “lạnh”, tác giả đã thể hiện một thái độ dửng dưng tuyệt đối đối với nội dung tư tưởng được thể hiện trong tác phẩm. Qua giọng văn ấy, thế giới nhân vật, nội dung câu chuyện luôn hiện ra một chất trung thực, khách quan trước mắt người đọc. Người đọc được tách biệt hoàn toàn so với thiên kiến của tác giả. Độc giả được tự do phán xét nhân vật theo chủ kiến của mình. Trong nhiều truyện ngắn Không có vua, Những bài học nông thôn, Tướng về hưu… tác giả cũng nhập vào vai người kể chuyện nhân vật xưng “tôi” nhưng vẫn cố ý tách ra khỏi câu chuyện để đảm bảo tính khách quan. Để tạo ra được giọng văn lạnh, Nguyễn Huy Thiệp dùng nhiều câu trần thuật ngắn gọn, súc tích, mang đậm tính liệt kê. Nguyễn Huy Thiệp rất chuộng dùng câu đơn. Đối với loại câu đơn có xuất hiện thành phần phụ thì thành phần phụ thường được tách ra bằng dấu phẩy. Riêng câu ghép, các vế cũng được tách ra rạch ròi. Điển hình “Cha tôi tên Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông nội tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề nhuộm vải…” Tướng về hưu; hay “Cấn là con trưởng. Dưới Cấn có bốn em trai, chênh nhau một, hai tuổi. Đoài là công chức ngành giáo dục, Khiêm là nhân viên lò mổ thuộc Công ty thực phẩm, Khảm là sinh viên đại học. Tốn, con út, bị bệnh thần kinh, người teo tóp, dị dạng. Nhà lão Kiền sáu người. Toàn đàn ông.” Không có vua Có thể nói, những câu văn sắc lạnh dửng dưng như thế có mặt khắp các trang văn của Nguyễn Huy Thiệp. Nó tạo cho tác giả một nét riêng độc đáo về phong cách. 2. Đưa thơ vào văn xuôi làm tăng hiệu ứng thẩm mỹ Trong số 37 truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp được chúng tôi khảo sát thì có tới 26 truyện tác giả có đưa thơ vào chiếm tỉ lệ 70,3%. Điều này cho thấy, việc đưa thơ vào văn xuôi có thể được xem là một đặc trưng trong phong cách của ông. Về nguồn gốc những câu thơ trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy có những đặc điểm sau đây – Thơ mượn của các nhà thơ khác, như trong các truyện Sang sôngmượn thơ Nguyễn Gia Thiều; Chút thoáng Xuân Hương mượn thơ Hồ Xuân Hương; Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt mượn thơ Nguyễn Bính;Nguyễn Thị Lộ mượn thơ Nguyễn Trãi, Kiếm sắc mượn thơ Nguyễn Du; Giọt máu mượn thơ Trần Tế Xương… – Thơ do chính Nguyễn Huy Thiệp sáng tác, như trong các truyện Tướng về hưu; Chảy đi sông ơi; Những bài học ở nông thôn; Huyền thoại phố phường… – Những câu thơ ca dân gian được nhà văn sử dụng lại theo cách của mình, điển hình trong các truyện Con gái thủy thần; Những người thợ xẻ… Về đặc điểm sử dụng thơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy có những nét nổi bật sau – Thơ được dùng làm đề từ, điển hình trong Con gái thủy thần; Chương Chi; Những người thợ xẻ, Phẩm tiết… – Thơ được dùng làm lời hát của các nhân vật, điển hình trong Tướng về hưu, Chương Chi, Những bài học nông thôn; Phẩm tiết… – Thơ là dòng suy nghĩ của nhân vật, điển hình như Những bài học nông thôn suy nghĩ của nhân vật Lâm; Sang sông suy nghĩ của nhân vật ông giáo; Thương nhớ đồng quê suy nghĩ của nhân vật xưng “tôi”; Chăn trâu cắt cỏ suy nghĩ của nhân vật Năng… – Cá biệt, trong truyện ngắn “Tội ác và trừng phạt”, Nguyễn Huy Thiệp dùng thơ thay cho bài tụng của vị sư Lục tổ Huệ Năng. Có thể thấy, việc sử dụng thơ song hành với văn xuôi trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp đã tạo ra những hiệu ứng thẩm mỹ và đặc trưng rõ nét về phong cách. Điều này tạo nên tính giao thoa, sự hòa quyện giữa thơ và văn xuôi. Đó là sự dung hòa tuyệt diệu giữa một thể loại mang đậm tính tự sự và một thể loại mang đậm tính trữ tình. Mặt khác, nó góp phần phá vỡ tính cứng nhắc về nguyên tắc thể loại, giúp tác giả có điều kiện thể hiện đa chiều tư tưởng của mình. Cũng cần nói thêm, việc đưa thơ vào văn xuôi không phải là vấn đề mới. Tuy nhiên, các tác giả trước đây chủ yếu lấy thơ làm đề từ cho văn xuôi Như trong Tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân hoặc đưa thơ vào văn với một tỉ lệ khiêm tốn. Đến Nguyễn Huy Thiệp, tác giả đã sử dụng thơ như một phương tiện nghệ thuật độc đáo và tạo được hiệu ứng thẩm mỹ rõ nét. 3. Kết cấu truyện đặc biệt Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp hầu như chỉ đi theo dòng thời gian tuyến tính. Rất ít sự xáo trộn về mặt kết cấu trong nội bộ câu chuyện. Song, nếu khảo sát kỹ, ta sẽ thấy có điều đặc biệt trong cách mở đầu và kết thúc ở mỗi truyện. Cụ thể, nhà văn thường dùng cách mở đầu mỗi truyện theo lối truyền thống. Lối mở đầu này gần giống như các truyện dân gian truyện cổ tích, truyền thuyết, ngụ ngôn…. Có nghĩa là nhà văn sẽ giới thiệu những nét chung nhất về các nhân vật có mặt trong truyện. Cách giới thiệu của Nguyễn Huy Thiệp thường ngắn gọn, súc tích nhưng mang tính khái quát cao. Ví dụ Trong truyện ngắn Sang sông, tác giả mở đầu “Sang đò có một nhà sư, một nhà thơ, một nhà giáo, một tên cướp, hai tên buôn đồ cổ, hai mẹ con, một cặp tình nhân và chị lái đò.” Chỉ bằng một câu văn, tác giả đã liệt kê hết tất cả nhân vật có mặt trong truyện. Người đọc dễ dàng bao quát hết nhân vật khi bắt đầu tiếp cận tác phẩm. Hay “Nửa đầu thế kỷ trước, ở Kẻ Noi, huyện Từ Liêm có ông Phạm Ngọc Liên là bậc đại phú. Ông Liên xây nhà trên miếng đất đầu làng. Miếng đất này bằng phẳng, rộng ba sào hai thước.” Giọt máu; “Cha tôi tên Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông nội tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề nhuộm vải…” Tướng về hưu. Trái với cách mở đầu mang tính truyền thống, kết thúc của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp luôn là kết thúc mở. Đặc biệt, ở nhiều truyện, nhà văn tạo dựng nhiều giả thuyết khác nhau cho đoạn kết câu chuyện. Điều này thể hiện rõ nét tính khách quan trong phong cách Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả cho phép người đọc tự do chọn lựa một kết cục phù hợp chứ không áp đặt. Kết thúc mở được Nguyễn Huy Thiệp sử dụng nhiều trong nhóm truyện đề tài lịch sử. Điển hình như trong Kiếm sắc, nhân vật Lân đã bị Nguyễn Phúc Ánh xử chém bằng thanh kiếm thần. Tuy nhiên, tác giả lại “chua” thêm một đoạn, kể về giai thoại Đặng Phú Lân và Ngô Thị Vinh Hoa trốn vua Gia Long lên Đà Bắc, giờ vẫn còn con cháu sống trên vùng ấy. Riêng trong truyện ngắn Vàng lửa, Nguyễn Huy Thiệp đã tạo ra 3 đoạn kết khác nhau cho câu chuyện. Đoạn kết 1 nhân vật Phăng bị vua Gia Long đầu độc chết. Đoạn kết 2 Nhân vật Phăng được vua Gia Long cho hồi hương về Pháp và sống đến già trong vinh hoa phú quý. Đoạn kết 3 tác giả không nhắc đến nhân vật Phăng, chỉ cho là Gia Long không muốn người đời biết được mối quan hệ của nhà vua với người châu Âu. Có thể thấy, với ba kiểu kết thúc như vậy, Nguyễn Huy Thiệp đã hoàn toàn tách mình ra khỏi vai trò phán quyết đối với các nhân vật trung tâm. Quyền ấy được trao lại cho độc giả. Trong nhiều truyện khác, tác giả cũng có cách kết thúc mở tương tự. Để tạo ra kết thúc mở, Nguyễn Huy Thiệp thường dùng những yếu tố mang tính hư cấu, mang đậm chất huyền thoại hoặc những lời đồn không đáng tin cậy. Ta có thể bắt gặp điều này trong các truyện Chảy đi sông ơi; Con gái thủy thần, Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết… 4. Sự nhào nặn lịch sử gây nhiều tranh cãi Khi điểm qua những nét nổi bật về phong cách truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, thiết nghĩ cần phải nhắc đến vấn đề sử dụng các cứ liệu lịch sử trong sáng tác của ông. Mặc dù vấn đề này trước đến nay đã gây ra khá nhiều ý kiến tranh cãi, phần lớn là phê phán, song chúng tôi vẫn nhận thấy đây là một vấn đề cần nhìn nhận một cách thấu đáo dưới góc nhìn phong cách học. Về phương diện này, ta thấy Nguyễn huy Thiệp chỉ thể hiện chủ yếu trong ba truyện ngắn Kiếm sắc, Vàng lửa và Phẩm tiết. Giới nghiên cứu thường gọi đây là nhóm truyện lịch sử của ông. Ba tác phẩm được tổ chức thành một chùm truyện, có sự liên kết về nội dung, cốt truyện, tình tiết. Truyện xoay quanh các nhân vật lịch sử Gia Long Nguyễn Ánh, Quang Trung Nguyễn Huệ, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du… Có nhiều ý kiến cho rằng, việc nhà văn phản ánh khá “trần tục” các nhân vật lịch sử vốn là tượng đài trong tâm thức cộng đồng giống như một hành động “làm méo mó lịch sử”. Tuy nhiên, chúng tôi nhìn nhận vấn đề này ngược lại. Thứ nhất, một yếu tố lịch sử khi được sử dụng, phản ảnh, nhào nặn trong một tác phẩm văn chương nghệ thuật thì ta không nên đồng nhất đó là lịch sử. Mà thực chất, đó chỉ là cách đánh giá chủ quan của nhà văn về một sự kiện, một nhân vật lịch sử nhất định. Đánh giá của nhà văn có thể giống hoặc khác cộng đồng. Thứ hai, Nguyễn Huy Thiệp không hề sử dụng các cứ liệu của chính sử để viết mà ông chỉ dùng những tư liệu mang tính hư cấu, những giai thoại dân gian, những lời đồn đoán mang tính huyền thoại để viết. Đây không thể xem là xuyên tạc lịch sử mà chỉ là một thủ pháp nghệ thuật đặc biệt trong phong cách nhà văn. Thứ ba, trong quá trình sáng tác, nhà văn luôn chú trọng đến yếu tố tiền giả định. Trong 3 truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp kể trên, tiền giả định là các “cứ liệu lịch sử” thời Gia Long. Tuy nhiên, ta nhận thấy, nhà văn đã sử dụng những tiền giả định này như một phương tiện nghệ thuật nhằm tạo hiệu ứng cho tác phẩm. Cụ thể, nhà văn đã nhào nặn, đã làm khác đi tiền giả định nhằm gây ấn tượng mạnh mẽ, hướng đến những nội dung mới lạ, sâu sắc hơn. Thứ tư, nếu tác phẩm văn học mà phản ánh lịch sử một cách nguyên xi thì nó không còn là tác phẩm văn học, nó sẽ trở thành văn bản ghi chép lịch sử. Tạo ra loại văn bản ấy không phải nhiệm vụ của nhà văn mà là nhiệm vụ của nhà sử học. Tác phẩm văn học phải thể hiện một lăng kính khác, một hướng khai thác khác của nhà văn về những điều hiển nhiên của lịch sử. Có như vậy, tác phẩm mới xứng đáng mang một sứ mệnh nghệ thuật cao cả. Từ những phân tích trên, chúng tôi cảm thấy nên ghi nhận việc đưa các yếu tố lịch sử vào truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp như một thủ pháp nghệ thuật, không nên dùng các chủ kiến “phi nghệ thuật” để đánh giá nhóm tác phẩm này như một số học giả đã làm. Thay lời kết Như đã trình bày ở trên, trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi rất khó để chuyển tải một cách toàn diện, thấu đáo những đặc trưng về phong cách truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Tuy nhiên, với những kiến giải trong bài viết, người đọc chắc chắn ít nhiều nhận ra những nét riêng trong trang văn của tác giả tài hoa này. Tạo ra một nét riêng, độc đáo về phong cách là điều mà mọi nhà văn luôn muốn hướng đến. Bởi lẽ, đó được xem là dấu hiệu đánh dấu sự khác biệt của nhà văn này với nhà văn khác, là sự khẳng định giá trị của mỗi nhà văn. Nguyễn Huy Thiệp đã tạo dựng cho mình một chỗ đứng trang trọng trên văn đàn nhờ dấu ấn phong cách của ông. Mặc dù còn nhiều ý kiến trái chiều, nhưng chúng tôi vẫn muốn khẳng định Nguyễn Huy Thiệp là cây bút truyện ngắn số một trong nền văn học Việt Nam từ ngày đất nước thống nhất đến nay. TRƯƠNG CHÍ HÙNG Đại học An Giang __________________________ Tài liệu tham khảo 1 Nguyễn Hồng Dũng. Thơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, ranh giới và sự xâm nhập thể loại, hiệu ứng thẩm mỹ. Kỷ yếu hội thảo khoa học. NXB Đại học Sư phạm Tp. HCM. 2011 2 Định Trọng Lạc. 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt. NXB Giáo dục. 2003 3 Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa. Phong cách học tiếng Việt. NXB Giáo dục. 1998 4 Nguyễn Huy Thiệp. Truyện ngắn. NXB Trẻ. 2003 Xem thêm Nhà thơ Mã Thế Vinh Cái riêng trong cái chung Kiếm tìm sự lộng lẫy từ vết thương thân phận Chùm thơ Khang Quốc Ngọc Kí ức hiện về rát buốt những đòn roi Chùm thơ Mai Hương Giữa ngổn ngang chữ nghĩa Chat GPT có khả năng vi phạm bản quyền nhiều tác phẩm văn học

phong cách nguyễn huy thiệp